NGUYỄN ĐẶNG MỪNG
VỀ LÀNG
Những người thắt đáy lưng ong
Vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con
( tục ngữ )
Hàng năm cứ vào tháng chín âm lịch, bà con
ở xa thường về làng chạp mả. Nhiều khi ở cả tháng trời cũng chưa
chạp xong mộ bên nội bên ngoại. Làng có tám họ tộc, mấy chục đời gả qua
lấy lại gần như bà con cả. Nhớ cho ra bà con thế nào, nội ngoại ra sao,
ai anh ai chị, ai chú ai bác, ai o ai d́ là một chuyện không dễ. Có
những trường hợp tôi vừa là ông vừa là cháu của một người nào đó, nếu
theo giai bậc của cách gọi bên này và ngược lại bên kia. Phải nhớ để
khỏi bị trách là điều thiệt khó đối với những người ở xa về. Từ ngày xa
quê tôi thường ghi chép để khỏi bị các chú bác cô d́ trách: “ Ơn say
chưa ” (1)
Nghĩa địa gọi là rú, là những đồi cát thấp
có nhiều cây dại. Hồi c̣n nhỏ, rú là nơi bí ẩn linh thiêng đối với chúng
tôi. Năm lên mười, lần đầu được vác cuốc đi chạp mả ngoại, được các cậu
chỉ bày đâu là mộ ngài nhất thế tổ, đường kính cả hàng chục mét, đâu là
ngài khai khẩn, khai canh. Khi cuốc phải một cái om đất nào các cậu bảo
đó là của người Hời để lại. Người Hời đối với chúng tôi như là người âm
phủ. Chuyện về ma Hời một lần nghe ai kể là đêm ngủ đứa nào cũng tranh
nhau nằm giữa. Ḷng ṿng một chặp chẳng nhớ ngôi nào là thế nào, chỉ
trông mau nghe tiếng phèn la giục để kéo về nhà thờ họ ăn xôi thịt. Trời
cuối thu, mưa lay phay lành lạnh mà ăn xôi thịt là nhất. Một mâm gồm xôi
một bên, thịt một bên, gọi là tả xôi hữu thịt. Có ít chuối chát,
khế và nhất là nước mắm mụ Cung nữa th́ phải biết.
Lần này nhân khánh thành đ́nh làng mới xây
hàng tỷ đồng, phần lớn của những đại gia xa xứ đóng góp, bà con trong
Nam về nhiều, tôi cũng thế. Lâu rồi mới được một lần sum họp bà con vui
thế này. Đúng mùa chạp mả nên trên rú đông như ngày hội. Mồ mả không c̣n
phải chạp như xưa. Không ai cần mang cuốc, chỉ thắp nhang. Nghĩa địa
được xây như một “ thành phố âm phủ ”. Họ ni phái tê ganh đua xây dựng.
Những lăng mộ “ hoành tráng ” thi nhau mọc lên. Đứa ở Mỹ phải hơn đứa ở
Pháp. Con nông dân mới phất phải hơn con địa chủ ngày xưa. Thế là… ông
bà được một phen… hănh diện, “ nở mặt nở mày ”. Thằng Thỉ hướng dẫn tôi
đi thắp nhang mộ chú Gàn, chú Ŕu và các ngôi mộ của nhũng người ngày
xưa cùng đội sản xuất.
Nổi bật lên trong đám phụ nữ là một bà quư
phái, tay che dù, có vài “ tiểu đồng ” đi theo. Tôi hỏi thằng Thỉ “ Ai
đó ”, hắn cười, “ Con mụ Nị chớ ai, nghe nói nó ở trong Sài g̣n, giàu
lắm ”, “ Nhớ rồi, con Nhan phải không ”, “ Chớ ai nữa. Hôm ni khánh
thành lăng mụ Nị ”.
***
Tên tuổi có khi cũng vận vào đời người,
không số phận th́ cũng h́nh dạng bên ngoài. Ví dụ làng tôi có chú
tên Ŕu th́ cả đời làm thợ cội. Chú đẽo cột tṛn nổi tiếng cả một vùng.
Những cột mít cong qua tay chú cũng trở thành… thẳng. Hay chú Gàn th́…
gàn không chịu nổi. Nghe nói trào Ngô Đ́nh Diệm, thôn trưởng, xă trưởng
nghiêm lắm. Thế mà có lần chú dám căi với cả cấp quận. Số là làng tôi có
con hói mới đào để chống úng, nước lụt lên cá nhiều lắm. Lúc nước rút
chú Gàn đem dạ ra đơm làm cản ḍng nước chảy. Quan huyện đ̣i phạt,
chú trả lời tỉnh bơ: “ Nước chảy th́ con đơm, con không đơm nước cũng
chảy ”. Mạ tôi kể có ông Chậm một đời chưa đi ṃn đôi guốc Mức,
nơi xa nhất ông đă từng đi là chợ Kẻ Diên cách làng bảy cây số. Đi đâu
ông cũng chân đất, kể cả đi ăn kỵ
(2), ông treo đôi
guốc trước móc dù, đến trước cổng nhà người ta rồi mới mang vào. Nghe
nói khi chết đôi guốc của ông vẫn c̣n mới.
Nhan cũng thế, “ Hồng nhan đa truân
”.
Ngày đầu về làng “tham gia sản xuất”, tôi
đứng gần bên Nhan để thi cuốc đất thải giữa các thanh niên của
các đội sản xuất trong làng. “ Đấu trường ” là ruộng “ Quá Giang ”, một
dăy ruộng có bờ thửa rộng và dài. Đích đến là lá cờ, sau lưng là loa
phát thanh hát bài “ Tiến về Sài G̣n ”. Chúng tôi dàn hàng ngang. “ Một
hai ba …cuốc ”. Anh chi hội trưởng phất cờ, thế là cúi đầu cuốc. Tôi
cuốc đúng kỹ thuật nên cùng bề ngang năm lát cuốc, càng lúc tôi lại càng
bị lùi về phía sau. Nhan kêu lên “ Chú cứ cuốc một lát, thả một lát,
nhanh lên ”, tôi làm theo trong hăng say phải thắng. Cuối cùng đội chúng
tôi về nhất. Báo hại mùa trái đó, đám ruộng chúng tôi lập “ thành
tích ” khỏi gặt, v́ chẳng có chẹn lúa nào. Cờ thi đua của thanh niên đội
tôi vẫn “ khí thế ” treo lên trên “ văn pḥng ” thanh niên phân chi hội.
Văn pḥng phân chi hội là nhà của mạ con
Nhan, cô làm phân chi hội trưởng. Chồng chị Nị (Ba của Nhan) là hạ sĩ
quan tiếp liệu (chế độ cũ), những năm sau bảy lăm c̣n ít vải vóc, áo
quần. Nhan lúc nào cũng sạch sẽ gọn gàng, áo lụa hoa, quần Mỹ Á, Xa Tanh.
Ba Nhan chết lúc xuống tàu ở cửa Thuận An, do mang nhiều tiền nên bị
cướp giết chết.
Mạ Nhan hay bệnh, những chiếc áo hoa, quần
Mỹ Á, Xa Tanh của Nhan cũng phải bán đến cái cuối cùng, mỗi cái được
tính bằng lúa, cái cao nhất là cái quần Xa Tanh được ba thùng lúa, ngày
bán cái quần Xa Tanh, gánh lúa về, Nhan vừa chạy vừa khóc..
Nhan ḥa đồng với những cô gái quê mười
tám đôi mươi thiếu ăn rách rưới. Mới mấy năm mà trông xác xơ đi, nhưng
vẫn đẹp. Suốt ngày ngoài ruộng đồng. Mỗi lần xắn quần bước xuống ruộng
làm cỏ, đôi chân thon hồng làm chạnh ḷng bao chàng trai, cũng làm khó
chịu những bà sồn sồn trong đội.
Một chiều trời mưa lớn, Nhan đứng ngoài
ngơ nói với vào: “ Chú B́nh ơi, khoai sau rú ngập hết rồi, mai sớm chú
cháu ḿnh đi lặn, được củ mô hay củ nấy chớ nhà cháu hết gạo rồi ”. Tôi
hơn Nhan bốn tuổi, không biết bà con thế nào mà gọi tôi bằng chú. Thấy
tôi thân thiện với Nhan ba tôi nghiêm giọng, “ Coi chừng ba không làm
thông gia với con Nị mô nghe ”.
Cơn lụt cuối tháng ba gọi là tiểu măn,
khoai đất cát mới hai tháng bị ngập trong nước. Cả làng già trẻ lớn nhỏ
lặn nước moi khoai. Nước ngang ngực, ngang cổ. Mỗi lần lặn xuống kéo lên
một vài dây khoai có dính vài ba củ bé tẹo như trứng gà so. Mấy ngày mưa
hôm nay lại có nắng. Tôi và Nhan lội cả cây số mới tới nơi những vồng
khoai hai chú cháu trồng hôm đầu tháng hai.
*
Tháng hai, mùa giáp hạt.
Nhan qua nhà tôi thật sớm, để gánh phân
chuồng có cột cái cuốc răng
(3) trước sân. Cả nhà đang
ăn cơm độn khoai, mạ tôi xới cho Nhan một chén, rưới lên một chút nước
ruốc. Nhan ăn ngon lành, tự nhiên, xong gom hết chén bát đi rửa. Nhan
nói “ Hôm qua đội chia rồi, chú cháu ḿnh được chia lô trồng khoai sau
đôộng Mai Đường, chú chưa lấy phân phải không, để cháu lấy cho ”, đoạn
ra chuồng lấy đầy hai thúng phân, một ngàn ngọn để lên trên. Mạ tôi đưa
Nhan gói khoai khô nấu, bảo để chú cháu ăn bữa lợ.
Nhan gánh phân chạy trước, đ̣n gánh nhịp
nhàng, chơi vơi dáng người thon thả. Nhan chạy chân trần (cả làng ai
cũng thế), gót chân nứt nẻ, áo bộ đội ngắn ngang thắt lưng, lộ mông tṛn
lắc qua lắc lại, hơi tóp so với mấy năm trước, lần làm cỏ lúa mùa hè thu
tháng bảy năm bảy lăm.
Khi làm cỏ lúa mấy đứa con trai cố t́nh
làm chậm lại để lén nh́n mông Nhan chổng lên, tṛn lẳn như hai trái bưởi
ghép lại, đen óng, căng láng trong chiếc quần Mỹ Á. Thằng Thỉ hôm đó
mang quần xà lỏn vải mỏng làm cỏ lúa sau lưng Nhan, khi hết lối đụng bờ
không đứng lên được, nó giả đ̣ đau bụng ngồi bệt xuống bùn. Chú Gàn biết
tỏng nó đang thế nào, kêu lên: “ Bà con ơi, tới bắt cá tràu…” (4).
Thằng Thỉ đứng dậy bụm “cá tràu” chạy về, không làm cỏ được nữa. Cả đội
cười ḅ lăn trên bờ ruộng, các cô gái chưa chồng đỏ mặt thẹn tḥ… Chú
Gàn lại ḥ: “ bởi em thương ruộng thương đồng, mặt úp xuống lúa chổng
mông lên trời ”. Ngày đầu tôi thấy h́nh ảnh này, vừa tội nghiệp vừa
thương xót các cô. Tham gia một ngày làm cỏ, tối về chân tay muốn rớt.
*
Buổi sáng bà con vừa gánh phân vừa khoe
với nhau là trồng được mấy ngàn ngọn rồi. Đất cát vùng trũng c̣n nhiều,
chưa vô hợp tác nên mạnh ai nấy trồng. Khoai là lương thực chính, lại
c̣n “ sản xuất cá thể ” nên bà con dồn hết tâm sức vào chuyện chăm bón.
Muốn trồng nhiều khoai phải nuôi heo để có phân, có nhà dùng cả phân
người. Đất cát trắng tinh (sau này tôi đi nhiều nơi chưa thấy cát ở đâu
trắng như thế. Bạn tôi ở Bắc Mỹ có lần viết thư bảo tuyết ở đây trắng
như cát quê ḿnh.), dùng cuốc răng cào lên một mái, rải phân chuồng dọc
theo luống, cào mái c̣n lại để lấp phân, rồi trồng ngọn lên. Ngọn khoai
gục xuống mấy ngày, nhờ ăn gió ăn sương đến ngày thứ ba th́ ngóc đầu dậy…sống.
Một tháng sau khoai bỏ ṿi gọi là “xây bàng thang”, thường rất ít cỏ,
chỉ cào lại một lần cho tơi đất rồi chờ ngày thu hoạch. Khoai đất cát củ
nhỏ, lớn nhất chỉ bằng cái trứng ngỗng, vỏ mỏng, ăn rất bùi, không khi
nào bị sâu.
Khu vực tôi và Nhan cào khoai là một miếng
đất trũng, bốn phía cao lên những nổng cát. Đứng cào khoai chỉ thấy trời
xanh và cát trắng. Trời càng trưa càng nóng. Nhan cởi cái áo bộ đội
khoác ngoài, bên trong là chíếc áo cánh bằng lụa màu hồng cài nút bóp.
Chiếc quần vải chéo màu đen bạc phếch, có vá một miếng sau mông. Hồi
trước ngực Nhan lớn, giờ thấy nhỏ lại, có lẽ tại không mặc áo ngực. Đồ
lót phụ nữ khan hiếm, trong cửa hàng hợp tác không có, ngoài thị trường
th́ quá đắt đỏ. Mỗi cô thường để dành một bộ quần đen áo trắng, may ra
th́ có áo ngực và quần lót để đi đám cưới, hoặc dự những ngày lễ hội.
*
Mỗi lần có vải phân phối về là vui lắm, hy
vọng ngời lên trong mắt bà con, nhất là các cô các chị. Áo quần vải vóc
được chia thành từng phần, rồi bốc thăm như xổ số. Trước khi bốc thăm
thường có cán bộ ban ngành nào đó phổ biến “ chủ trương đường lối ”. Hôm
đó chị Mịn hội trưởng phụ nữ thôn nói về kế hoạch hóa gia đ́nh, sau khi
“ kính thưa ”, chị bắt đầu “ đi vào vấn đề”. (Chị có thói quen nói dai,
bà con th́ nóng ruột trông mau hết để bắt thăm). Chị thường “ triển khai ”
bằng câu “ Một là…”, rồi hai là., ba là… rồi trở lại “ Một là… hai là…”.
Lần này bà con tưởng xong chờ đợi, chị lại tiếp “ Bốn là…”. Bà con ồ lên,
chú Gàn đưa tay có ư kiến, chị Mịn trịnh trọng: “ Mời chú Gàn”. Chú đứng
dậy nói cộc lốc: “ Bốn là bá L…”. Cả đội cười nghiêng ngả. Chị
Mịn khóc tấm tức. Chú Gàn không cười, tỉnh bơ. Chị Mịn góa chồng, bà con
hay “cặp đôi” với chú Gàn.
Oái oăm là các cô ít khi được trúng quần
vải chéo đen, có khi lại bắt trúng quần xà lỏn. Có lần con Bê con mụ Nậy
không trúng được quần đen khóc tức tưởi. Thằng Thỉ lại trúng luôn hai
cái. Tối hai đứa về cùng đường, thằng Thỉ đề nghị: “ Cho tau rờ một cái
tau đổi quần đen cho ”. Con Bê “ Xí ” một cái, sau đó nghĩ lại, tiếc,
bước lên chận thằng Thỉ lại, nói “ Đó, mần chi đó th́ mần ”, thằng Thỉ
không làm chi cả. Rứa là con Bê giật cái quần chéo đen trên tay thằng
Thỉ. Thằng nhỏ mất tiêu cái quần trị giá hai thùng lúa.
*
Mồ hôi làm áo dính vào lưng của Nhan, thấy
rơ cả đường ao. Mạ tôi hay bảo những đứa “ thắt đáy lưng ong ” như con
Nhan hiếm lắm, thế nào cũng làm mệnh phụ. Tôi ngừng cào ngắm xem cái
lưng ong nó làm sao. Nhan không để ư, hỏi:
– chú có ư định hỏi vợ mô chưa.
– ai ưng mà hỏi.
– Cháu có người sắp đi hỏi rồi đó.
– Ai rứa.
– Ông Thệ.
– Ông Thệ lùn bên làng Q. phải không.
– Dạ. Cháu không ưng mà mạ cháu cứ ép hoài,
cháu khổ lắm. Mạ cháu nói ông Thệ hiền, lại làm phó chủ nhiệm hợp tác,
khỏi lo đói.
Tôi biết lăo Thệ. Hắn mập, lùn tịt, da
trắng bệch, đội chiếc mũ cối, mang cái đài mở oang oang, hay đạp xe qua
làng tôi. H́nh như hắn có bà con nội ngoại với ai đó ở xóm Tả. Mặt hắn
gầm gầm mỗi lần chạm mặt tôi. Vợ hắn chết, có hai đứa con gái đă học cấp
hai.
Đến lúc này mới hiểu ḷng ḿnh, tôi dừng
cào loạng quạng ngồi xuống trên vồng khoai. Nhan chống cuốc, khom người
nh́n tôi, mồ hôi lấm tấm trên má trên cằm, đôi mắt mở to dưới vành nón
lá, ái ngại : “ Chú mệt à, nghỉ một chút nói chuyện rồi cào tiếp, chắc
trưa cũng được vài ngàn ngọn ”. Tôi chậm răi:
– Cháu biết chú thương ai không.
– Chắc mấy cô giáo trong trường chớ chi,
cô mô nói cho cháu biết với.
– ….
– Hay là chị Kiều y sĩ trên huyện hay về
thăm chú.
– …
– Nhan thân thiện ngồi xuống bên, tôi nh́n
sâu vào mắt Nhan, ngập ngừng:
– Tôi thương Nhan.
– Chú thương hại cháu.
– Chú thề …
Lưỡng lự một chút, Nhan ôm chầm lấy tôi
khóc hu hu. Nhan khóc cho thỏa, rồi thút thít: “ Ông (ba tôi) không cho
mô, ông chê nhà cháu không xứng.”
… Nhan nằm lên đùi tôi, hàng nút bóp trật
ra lồ lộ ngực trần trắng ngần, loang loáng cát. Tôi hôn lên đó. Tôi hôn
lên những nổng cát hoang hoải quê nhà.
*
Nước ngập ngang ngực, trong đến độ thấy
những lá khoai xanh tái rung rinh. Hai chú cháu bắt đầu thấy lạnh.
Môi Nhan tái đi. Nhan bưng cái rá c̣n tôi lặn. Lặn một hơi kéo lên được
vài ba dây có dính những củ khoai màu trắng ngà, nhỏ như trứng chim
trứng gà. Nhan lảy cho vào cái rá, đầy rá th́ bưng lên nổng cát đổ vào
bao. Đến gần trưa được hai bao 50 kư. Tôi lặn một hơi dài, khi trồi lên
thấy Nhan té ngồi xuống, nước ngập đầu, tóc ḷa x̣a lao chao trong sóng
nước. Tôi hốt hoảng bế Nhan lên khô. Nhan ọc ra một búng nước, mặt tái
mét, môi run run : “ Cháu đói, sáng ni chưa ăn chi hết, nhà cháu hết
khoai rồi...”. Tôi chao mấy củ khoai bảo “ Cháu nhai đi cho đỡ đói ”.
Nhan nhai khoai ngon lành. Tôi bảo cháu cởi áo ra đi, mặc áo khoác khô
vào cho đỡ lạnh. Nhan ngoan ngoăn quay lưng cởi cái áo cánh, dưới nắng
trưa, tấm lưng gầy màu trắng xanh như dài ra tội nghiệp. Đường ao cạn đi
trơ những đốt xương sống. Lưng ong, mệnh phụ ǵ ở cái xứ này!
Để hai bao khoai lại, cơng Nhan về, tôi
cũng đói rồi, chân run từng bước. Tôi cơng Nhan đi liêu xiêu men theo bờ
nước, có lúc mắt hoa lên. Ngoài xa những cái đầu người moi khoai nhập
nḥe trong ánh nước loang loáng. Nhan nói thủ thỉ “ Chú thương cháu ri
mai mốt lấy chi mà đền cho chú ”.
*
Lụt ngập trắng đồng không biết làm chi,
ngồi nhà th́ xót bụng.
Một buổi văn nghệ gọi là “ tự biên tự diễn ”
được tổ chức trên sân phơi của đội. Chú Gàn bảo phải thêm câu ‘tiếng hát
át cơn đói”. Bà con vây quanh lại, “ sân khấu ” nằm giữa như kiểu sinh
hoạt lửa trại. Ánh sáng mập mờ phát ra từ một gốc dương liễu đang cháy,
bập bùng. Thanh niên hát nhiều bài cách mạng: Tiếng chày trên sóc Bom
Bo, Tiếng đàn Ta Lư… Vui lắm. Nhan mặc đồ người dân tộc Pa Cô, cái mông
lép kẹp có dịp “ lắc qua lắc lại” trong bộ cánh người dân tộc “ Ơi…
người con gái Pa Cô, con cháu… ”. Bà con vỗ tay quá chừng ... chừng.
Chú Gàn và chú Ŕu cũng có một tiết mục,
do chú Kha bí thư chi bộ yêu cầu. Tôi làm xướng ngôn viên, trân trọng
giới thiệu: “ Kính thưa bà con, trở về thời kháng chiến xa xưa, mời quư
đồng chí (sau này tôi bị nhắc nhở), bà con nghe lại, thấy lại những h́nh
ảnh nên thơ của thời hào hùng chống Pháp. Hăy sống lại h́nh ảnh cha chú
của chúng ta, họ đă từng yêu thương, lạc quan như thế nào trong lúc đối
mặt với kẻ thù. Mời bà con xem lại điệu nhảy “ Đây gió đây trong rừng ”,
điệu nhảy một thời các Vệ quốc quân giao lưu với các O thôn nữ quê ḿnh.
Kính thưa bà con đó là vũ điệu : “ Đây gió - đây… trong… rừng ” do Anh
Gàn và O Ŕu diểu diễn…” Tôi hét to lên, âm vang như tiếng xuất quân
thời ấy. Chú Gàn mặc áo trấn thủ, chú Ŕu mặc áo bà ba giả làm thôn nữ.
Hai người nhảy như những vũ công thứ thiệt.
Điệu nhảy mang dáng dấp khiêu vũ hiện đại, cộng theo một vài động tác
múa dân dă, có nét như nhảy “cha cha cha”, lại có chút ǵ như “bebop”.
Cũng nam tiến nữ lùi, cũng nam chân trái đối với nữ chân phải, nhịp
nhàng. Ḷng bàn tay nam và nữ có lúc vỗ vào nhau. Ḷng bàn chân cũng thế,
đá ḷng bàn chân vào nhau, lúc trước lúc sau. Khi quay phải khi quay
trái, lúc đối mặt lúc đối lưng thật đẹp mắt. Đặc biệt là những đôi mắt
cũng lúng liếng đưa t́nh nhưng ngây thơ và trong sáng, không t́nh tứ như
hát quan họ.
Bà con, nhất là những Chú những O đă trải
qua thời kỳ chống Pháp vỗ tay nhiệt t́nh. Họ hát theo nhịp nhàng say sưa.
Nhiều cặp nhảy với nhau như một dạ hội khiêu vũ. Có mệ nằm lăn
giữa sân hát theo, xúc động sùi bọt mép…
Những năm cuối 1950, lúc mới lớn tôi cũng
đă từng thấy các cô chú hát và nhảy bài này. Nghe kể lại trước năm 1954
các anh Vệ Quốc Đoàn đă từng hát và nhảy với các cô thôn nữ trong làng.
Những người đă từng tham gia hai trung đoàn 101 và 95 đều hát và nhảy
được bài này. Đến giờ tôi cũng chưa biết bài hát xuất xứ từ đâu, lời
truyền khẩu có đúng không. Xin chép ra một đoạn như sau:
Đây gió, đây trong rừng, đây cánh đồng
bao phóng khoáng, nầy cô em muôn vàn thân yêu có sầu nhớ chi trong ḷng.
Tay ngắt bông hoa hồng, hoa với cành
cùng đua sức thắm, ḱa chim non muôn vàn,hoa tươi trên cành líu lo muôn
đời
Chiều dâng lên tiếng ca tiếng đàn,
chiều bâng khuâng nhắc ḷng em buồn. Gió mát nhắc rằng cô em muôn vàn
thân yêu có sầu nhớ chi trong ḷng...”
Được viết theo điệu cha- cha- cha, cung
ré trưởng.
Mạ tôi kể rằng làng tôi thuộc vùng kháng
chiến. Ban ngày lính Tây đi lùng. Mạ gánh chị em tôi hai đứa hai đầu
thúng, chạy băng qua cánh đồng về bên ngoại gần đồn Thi Ông tránh bom
đạn. Các chị lớn chạy lúc thúc theo sau. Rất nhiều lần nhà cửa trong
làng bị đốt cháy.
Gian nan vất vả là thế nhưng đêm về các cô
thôn nữ vẫn quay lại làng cùng… hát và nhảy bài “ Đây gió ” với bộ đội.
Các sân phơi lúa biến thành sàn nhảy. Các “ vũ công ” say sưa từng đôi
một. Biết bao mối t́nh lăng mạn và đau thương đă xảy ra trong thời kỳ đó.
Nghe nói có hôm liên hoan và nhảy “ Đây gió ” trước khi công đồn, rồi
bao người không về nữa. Những lễ truy điệu trong đêm thật buồn đau nhưng
sau đó cũng lạc quan, yêu đời, lại nhảy “ Đây gió ”. Có hôm đang gặt lúa
ngoài đồng, nghe tin bộ đội về, các cô thôn nữ liếc mắt ra hiệu cho nhau
về sớm để nhảy “ Đây gió ”. Bài hát và điệu nhảy đó là món ăn tinh thần
không thể thiếu của dân quân Trị Thiên vào những năm chiến tranh khốc
liệt. Năm 1954 phần lớn các anh Vệ Quốc Đoàn tập kết ra Bắc. Có những o
thôn nữ buồn nhớ các anh, đêm về trốn ra vườn nhảy “ Đây gió ” với… bụi
chuối. Sáng ra bụi chuối xác xơ như qua một trận băo.
Về sau này không biết lư do ǵ mà không
nghe ai nhắc đến bài hát và điệu nhảy đó nữa.
Xong buổi văn nghệ, ai về nhà nấy. Nhan đi
bên tôi, đường xóm tối thui, không nói với nhau một lời. Tôi vào nhà moi
nắm khoai khô ra chia cho Nhan một nửa, cùng nhai, cùng uống một gáo
nước để quên cái đói cồn cào.
*
Mùa màng năm đó thất bát, cánh đồng đến
mùa gặt bạc phếch, “ chuột chạy không bén lông ”, lo lắng lộ rơ trên
khuôn mặt những người lớn tuổi. Người ta bàn tán, kể lại chuyện đói năm
Thân Dậu. Mạ tôi xay lúa, ḥ ư ử: “ Ạ… ơ… ờ, được mùa chớ phụ môn
khoai, hà ơ..i …đến năm rồi… Thân Dậu, …À ơi… biết lấy ai … bạn cùng”..
Tiếng ḥ nghẹn lại trong tiếng lào xào của cối xay. Trong làng chẳng
ai c̣n môn c̣n khoai để làm bạn. Năm này năm Thân, sang năm là
năm Dậu.
Chú Gàn đôi mắt lim dim ngâm nga “ Thân
Dậu niên lai kiến thái b́nh. Thái b́nh chết đói thấy mà kinh, chẳng thà
chinh chiến mà sung túc, chết đói nhục hơn chết đạn ḿn ”. Chú Ŕu
thất nghiệp dọn quán hớt tóc, từ sáng đến chiều không có khách nào, chú
nhắp kéo nghĩ lại cái thời cầm ŕu ngang dọc, được ăn ba bữa c̣n chè
cháo hai bữa lỡ, rứa mà …chừ đói thắt ruột gan.
Tháng mười. Qua bốn trận lụt làng xóm xơ
rơ, không c̣n tiếng chó sủa, heo kêu, gà gáy. Những cây đu đủ, cây chuối
gục xuống vàng khè. Trong làng chỉ c̣n cây tre là sống nổi. Bùn đóng
váng lên cây cỏ màu phù sa tái nhách.
Ngày đưa đám chú Gàn cả làng ai cũng khóc.
Chị Mịn đại diện hội phụ nữ môi giật giật nói trong tiếng hức… hức… “ Chú
ơi bỏ qua cho cháu mọi chuyện nghe chú, cũng v́ công việc “ trên giao ”
chớ cháu có giận chi chú mô, chú ơi…”. Chú Kha bí thư chi bộ đọc lời
chia buồn, xong kéo cái khăn màu cháo ḷng vắt vai lên lau nước mắt. Ông
kể lại cái đói năm Ất Dậu 1945, những ngày cùng chú Gàn, chú Ŕu ở trần
xoa mỡ vào người ôm Tây vật dưới nương mụ Giành năm Quư Tỵ 1953. Ông đi
tập kết mấy chục năm về những tưởng bà con no ấm, ai ngờ… Người ta quên
hết những lời gàn bướng “ nổi tiếng ” của chú: “ Gà ai tới
nương Gàn th́ Gàn mần thịt, c̣n gà Gàn tới nhà ai th́ ai cứ mần thịt ”,
mà chú Gàn có nuôi nổi con gà nào đâu. Một ḿnh không con không vợ, khi
chết gia tài lớn nhất là bộ phản được ghép làm ḥm. Trong nhà không c̣n
một lát khoai khô. Âm công chạy trong tiếng sanh cóc… cóc… như gơ vào
ḷng mọi người những tiếng kêu cảnh báo khô khốc. Chú Ŕu làm chấp
lệnh thường nghiêm lắm mà hôm nay nước mắt chảy ṛng, mặt chú đỏ lên
như bao nhiêu huyết khí c̣n lại trong người dồn vào đó. Nghe kể vợ chú
bị Tây hiếp nhiều lần đến chết. Chú ở vậy nuôi con. Ngày tập kết ra Bắc,
các con c̣n dại chú không nỡ bỏ đi, gạt nước mắt chia tay đồng đội.
Khi hạ huyệt trời mưa xối xả. Quan tài phủ
giấy đỏ có ḍng chữ Hán màu vàng, hai người cầm hai đầu tấm sớ lật qua
lật lại trên nắp. Những nắm cát bà con quăng xuống, màu đỏ ch́m trong
cát, trắng đến rợn người. Nhan ngồi bên đôi thùng nước chè không ai buồn
uống. Nhan đổ hai thùng nước rồi nh́n tôi, mắt đỏ hoe.
*
Buổi trưa đang lơ mơ ngủ nghe Nhan gọi: “ Chú
B́nh ơi, đi chia thịt trâu ” “ Trâu mô rứa ”, “ Con Ve lọi cẳng
(5) rồi.
Con Ve cày hay nhất đội bốn chân chổng lên
trời, bà con vây xung quanh, mặt ai cũng ngời lên sung sướng. Máu Ve
hoen đỏ cả mảng cát, như tấm bản đồ châu Á: Bên trắng, bên đỏ.
Màu đỏ nơi ranh giới oan nghiệt đó đậm hơn - sẫm màu tủi nhục. Ve
nh́n bà con hiền ḥa như lúc cày bừa bụng đói, đêm về Ve nhai lại ḷng
ḿnh. Ve cũng như bà con nhai lại chính ḿnh, thông cảm với bà con bằng
những tiếng ọ… ọ ọ. Vĩnh biệt! Ọ… Ọ.
Nhan thút thít, đến bên cái đầu Ve vừa bị
cắt ra vuốt mắt. Nhan cũng nhắm mắt, lơ mơ như Ve. Có lẽ Nhan đang nhớ
lại mùa lụt năm ngoái, Ve bơi qua sông c̣n Nhan đứng khóc, Ve nh́n lui
như hiểu được ḷng Nhan, bơi trở lại. Ngày Ve c̣n sung sức đánh nhau với
con Nậm bên đội ba, chiều về ḿnh đầy thương tích, Nhan vừa cho ăn vừa
bảo “ Đă nói rồi mà, không được đánh nhau mà. Hư lắm! ”. Ve lim dim mắt
như nhận lỗi.
Một cơn gió mạnh thổi qua, hàng tre cong
ḿnh xuống. mọi người nh́n nhau, mơ hồ sợ sệt. Im lặng. Tôi nghĩ đến
linh hồn chú Gàn. Những đêm mùa đông chú thường lặng lẽ un khói cho trâu,
chú nói “ nó làm cho ḿnh ăn, không được vô t́nh ”.
Bà con xách về từng xâu, có đủ thịt xương
ḷng, bàn tán thịt sẽ ăn với chi. Người bảo nấu cháo, người bảo làm bún
xáo…, họ khéo tưởng tượng, chẳng có nhà nào c̣n gạo. Chú Gàn chết rồi,
không lại có một… câu vè.
Chia thịt trâu về xong Nhan lại kêu: “ Chú
B́nh ơi đi chia bo bo ”. Bà con nháo nhác bên chiếc xe vận tải chở đầy
bo bo. Chú Kha bí thư chi bộ trịnh trọng “ kính thưa bà con, Đảng ta
luôn quan tâm tới bà con, anh em các nước XHCN không quên chúng ta, Liên
Xô vừa viện trợ cho chúng ta hằng triệu tấn bo bo, đây là loại lương
thực rất bổ dưỡng…”. Bà con vỗ tay quá chừng. Xong chú Kha đi ṿng
ṿng nh́n bà con chia bo bo, khuôn mặt gầy đanh lại khắc khổ. Chú là cán
bộ liêm khiết nên rất nghèo. Nghe nói gia đ́nh chú cũng đói cả tháng
nay, ăn tới củ chuối sứ rồi.
Cả đội được một ngày vui vẻ, hạnh phúc,
ấm no. Đêm đó có rất nhiều sáng chế từ món thịt trâu già dai nhách
nấu với bo bo. Sáng mai có hàng chục người được gánh ra trạm xá v́ bội
thực.
*
Tháng chạp trời rét cắt da, mặt ai cũng
vàng đi v́ đói. Riêng mạ con Nhan th́ không, Nhan phổng phao lên thấy rơ.
Chị Nị đă đi lại được, bắt đầu đỏ da thắm thịt. Lăo Thệ buổi tối thường
ghé nhà Nhan, chở sau xe đạp khi th́ túm gạo, khi th́ cân thịt. Có lần
tôi qua nhà Nhan mượn mấy lon gạo về cho mạ nấu cơm tối, Nhan đang phơi
áo, tấm lưng ong nuột nà trong chiếc áo lụa mỏng, phơn phởn đường cong.
Khi cúi đong gạo, tôi liếc thấy hai bầu vú Nhan căng hồng, lớn hơn hồi
tháng hai nhiều. Nhan đong thêm một lon, gói riêng trong tờ báo cũ, bảo
“ khuya chú nấu riêng một lon gạo không độn khoai sắn mà ăn, lâu rồi
chú chưa được ăn một bữa cơm không độn, gạo ni ngọt lắm ”. Về, tôi
nói với mạ ư con Nhan, mạ nh́n tôi ứa nước mắt.
Có lần đi họp chi hội sớm tôi hỏi Nhan: “ cháu
tính sao ”, Nhan thản nhiên: “ Ăn no rồi tính, chú có tính chi được cho
cháu mô ”. Nghe Nhan nói tôi the thắt trong ḷng, đúng rồi, tôi có tính
ǵ được đâu. Tôi không trách Nhan, cũng không trách tôi. Khi đói con
người ta chỉ c̣n nghĩ đến chén cơm.
Đám cưới Nhan và Lăo Thệ sẽ được chi hội
thanh niên tổ chức vào ngày chủ nhật hạ tuần tháng chạp. Chiều thứ bảy
phân chi hội lo làm rạp, cắt khẩu hiệu, cờ xí. Hôn trường loè
loẹt nhiều màu. Chiều xong việc đám thanh niên ai về nhà nấy. Đến gần
tôi, Nhan nói nhỏ, “ Tối ni khoảng mười một giờ chú ra ngoài ngơ cháu có
chuyện ni nói với chú, nhớ nghe, nửa đêm ”. Tôi hỏi “ Chuyện chi rứa ”,
Nhan nghiêm mặt: “ Bí mật ”.
Nhà tôi c̣n vài thùng lúa, mạ tôi mỗi bữa
nấu một lon sữa ḅ, c̣n bao nhiêu là độn sắn lát. Những hạt cơm dính
trên những lát sắn thưa như lúa giống lúc văi mạ. Mỗi người chỉ được hơn
chén. Thức khuya cơn đói cồn cào. Mười giờ đêm cả xóm ch́m đi trong bóng
tối mùa đông. Tôi đi tha thẩn trước sân, trùm cái mền dạ mà cứ run cầm
cập. Lạnh từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới. Chưa bao giờ tôi đói
như thế này. Cơn đói hồi chiều c̣n hy vọng vào bữa ăn tối, cái đói trong
đêm không c̣n hy vọng được ăn, quay quắt làm sao. Nhà Nhan leo lét tí
ánh sáng. Tôi cứ nhắm hướng nhà Nhan mà bước. Nh́n qua khe cửa sổ thấy
Nhan đang xếp quần áo, mắt liếc chừng về pḥng chị Nị. Tôi gọi khẽ “ Nhan ”,
cô giật ḿnh nhẹ rồi cúi sát vào cửa sổ th́ thào “ Đă dặn mười một giờ
mà ”, “ Nhưng chú đói quá, có chi ăn không ”. Nhan đưa cho tôi bịch bánh
quy (có lẽ để ngày mai dọn đám cưới), th́ thào: “ Chú đi ra đầu cầu,
cháu ra liền ”. Tôi cầm bịch bánh quy đi nhanh ra phía cầu, vừa đi vừa
ngoạm một miếng cả chục cái, chờ Nhan. Trăng hạ tuần lên muộn trong mây,
lờ mờ chút ánh sáng. Nhan trùm áo mưa từ đầu đến chân, h́nh như có ôm
theo cái bao cát (6) đựng áo quần trong đó, nghiêng sát
vào người tôi nói nhỏ:
– Chú về lấy xe đạp đưa cháu ra ga, một
giờ tàu chạy.
– Nhan đi mô.
– Đi trốn.
– Rứa c̣n đám cưới ngày mai.
– Mặc kệ, một là đi hai là chết.
– Nhan suy nghĩ lại đi.
– Không suy nghĩ chi hết. Hôm qua ông Thệ
hun cháu, cái miệng hôi đến độ nghĩ đến là muốn mửa. Cháu thà chết chớ
không lấy ông Thệ mô. Chú có chở cháu đi không th́ nói, cháu đi bộ.
Nhan khóc nấc lên, quày quả bỏ đi. Tôi
hẫng đi một chút rồi chạy về nhà lấy xe đạp đuổi theo. Đèo Nhan đoạn
đường tám cây số không một bóng người. Nhan ôm vào eo tôi thủ thỉ: “ Cháu
vô trong nớ kiếm được việc làm, biên thư ra chú có vô không ”. Tôi không
trả lời, mải miết đạp.
Tàu c̣n hơn tiếng nữa mới đến ga. Khách
đợi chỉ non chục người. Chúng tôi lủi nhanh vào góc tối để tránh người
quen, hai đứa ngồi lên chiếc ghế đá cuối hành lang. Nhan cởi áo mưa xếp
lại cho vào bao, xong nói rành rọt:
– Số cháu nó rứa, t́nh chú cháu ḿnh cũng
ngang đây. Cháu chỉ nhờ chú săn sóc mạ cháu lúc ốm đau. Hằng tháng cháu
sẽ gửi tiền về cho mệ (mạ tôi) để đưa dần cho mạ cháu. Tính bà nớ rộng
răi, không mấy cho đủ. Đây là hai chục ngàn ông Thệ cho, chú giữ giùm
cho mạ cháu, nhớ là đừng đưa một lần. Tốt nhất là nhờ mệ cho mạ cháu ăn
cơm và làm chi đó bên nhà chú cũng được. Ư chú răng.
– Đáng ra chú cũng trốn đi theo cháu nhưng
chú chưa có quyền công dân, chưa có chứng minh nhân dân. Thôi số phận
chú cháu ḿnh như rứa th́ cùng chịu. Chúc cháu đi chân cứng đá mềm. Biết
đâu ông trời thương lại gặp nhau trong nớ.
Tàu chuẩn bị vào ga, hai đứa đứng lên.
Nhan ôm chặt tôi hôn lên má, tôi cúi đầu nhận nụ hôn chia biệt, nh́n
theo chiếc Lưng-ong-mệnh-phụ đi khuất, nước ứa mắt ra.
Giêng hai lại đến. Tôi lại cùng dân làng
gánh phân đi trồng khoai sau rú. Chị Nị vừa trồng khoai vừa ḥ, giọng ḥ
như những mũi kim đâm vào ḷng tôi: “ Mẹ già cuốc đất trồng khoai, con
đi mua ngọn nghe ai chưa về ”.
***
Hai đứa hướng về mộ chị Nị, vừa đi vừa
nhắc chuyện xưa. Tôi hỏi thằng Thỉ mấy con rồi, hắn nói tám đứa. “ Đẻ
chi nhiều rứa ” “ Ở đây những năm chú đi xong buồn lắm, đi cày về đói
bụng trằn trọc không ngủ được, rứa là soạn bài, lại có bầu rồi đẻ ”.
Tôi đùa với thằng Thỉ: “ mi nhớ chuyện cá tràu không ”, hắn đấm
vai tôi, cả hai cười nắc nẻ.
Nhan đứng khấn trước mộ mẹ, tay cầm bó
nhang run run. Tấm lưng ong thiếu phụ có đẫy đà hơn xưa, vẫn khiêu gợi
trong chiếc áo dài đen quư phái. Khấn vái xong quay lại, Nhan và tôi
nh́n nhau lặng đi một chặp, Nhan đưa hai tay ra trước như muốn ôm chầm
tôi, kêu lên:
– Chú B́nh phải không, ơn say chưa...
Bữa ni ở mô răng không nghe ai nói chi về chú hết.
– Làm công nhân cao su tuốt miền Đông Nam
bộ, rừng rú mần chi có địa chỉ.
– Vợ con chi chưa, răng khi mô đời chú
cũng...
– Cũng đói... run tay run chân.
Nhan cười nhẹ, đôi mắt u hoài xa xôi nh́n
về phía độộng Mai Đường.
Đứng trên cao nh́n xuống, làng xóm ruộng
đồng như nhỏ lại. Bà con đi về theo nhóm, di động chậm răi, nhiều sắc
màu nhấp nha trên nền cát trắng, cây xanh.
Nhan mời tôi và thằng Thỉ về nhà ăn kỵ.
Nhà Nhan được xây dựng khang trang mà
không ai ở, chỉ để thờ cúng. Bà con nội ngoại phần nhiều cùng đội ngày
xưa. Ai cũng tay bắt mặt mừng: “Chú nhớ tui không”, “ Cháu nhớ d́, nhớ
cô, nhớ cậu không ”. Rồi “ ơn say chưa, không khéo ra ngoài đàng
đập chắc (7) ”. Thiệt t́nh tôi làm sao nhớ hết, Nhan
th́ không thế, tại năm nào cũng về. Tiệc tan, Nhan đến gần tôi nói nhỏ:
“ Chiều ni đi thăm động Mai Đường chú hè ”, tôi đùa: “ Có mang
theo bánh quy không ”, Nhan cười ư nhị.
Hoàng hôn. Những ruộng lúa sau mùa gặt trơ
gốc rạ. C̣ đậu trắng đồng, điều mà những ngày chú cháu c̣n làm
ruộng hợp tác không thấy. Chúng tôi đi theo đường xóm Đ́nh. Nhan mặc
chiếc áo dài màu sáng, quần đen. Mùi nước hoa thanh nhă thoảng ra từ mái
tóc dài, thả lửng lơ. Đường xóm được tráng xi măng sạch sẽ nhưng có vẻ
vô duyên hơn ngày xưa. Người ta chặt hết tre để kéo dây điện. Tôi
nói “ Làng quê mà không có tre như con gái đi đám cưới mặc áo cụt, quần
đen ” “ mà có đứa không có cả quần lót ” Nhan nói xong cười rũ rượi: “ Chú
nhớ chuyện nổi gân khu không ”. Nhớ lần đám cưới con Bê, thằng Thỉ phát
hiện rồi la lớn: “ Hôm ni đám cưới vui quá, con mô con nấy nổi gân khu ”
(8).
Ngang qua đ́nh làng, ngôi đ́nh được xây
hoành tráng trên nền cũ. Đ́nh làng tôi linh lắm, qua hai cuộc chiến
tranh chưa bao giờ dân làng chém giết nhau, dù người theo bên này, kẻ
theo bên kia. Ở làng th́ ấm no, đi xa thần hoàng cũng pḥ hộ làm ăn phát
đạt. Nhan bảo: “ Cháu đóng góp năm mươi triệu để cúng làng, ai cũng nói
đóng chi nhiều rứa, cháu nghĩ ḿnh không con không cái, đ́nh làng như
nơi thờ tự tổ tiên, là nơi mai sau khi ḿnh chết có chỗ mà về ”. Hai đứa
lặng đi. Ánh chiều yếu ớt buồn tênh, lặn sâu vào mắt Nhan, thao thiết
ḷng tôi.
Chúng tôi nắm tay nhau đi qua những băi
cát, nhớ từng tên gọi. Đây là canh Hạ, lên một chút là canh Thượng. Bóng
hai đứa đổ lên cát, trắng đến nao ḷng. Tôi hỏi “ Nhan sợ ma không ” “ Sợ
người chớ không sợ ma ”. Tôi lại hỏi: “ Rứa chú là ma hay là người ” “ Chú
là chú B́nh, ân nhân, người yêu, người chồng hụt, người…”. Tôi hôn lên
làn môi mằn mặn nước mắt, đắm đuối thỏa thuê. Môi Nhan run, giật giật
theo tiếng nấc.
Trăng thượng tuần vằng vặc lấp lóa ánh
phản chiếu trên những ruộng khoai ngập nước.
Vẫn hướng về Mai Đường. Giọng hiền như
thời mới lớn, lúc sôi động, lúc nghẹn ngào, Nhan kể:
Lên tàu vào thẳng Sài G̣n, may mắn cháu
xin được phụ bán cà phê cho một chị gốc quê ḿnh, chị Lan. Chị Lan bảo
là nghe ba mẹ kể lại thế chứ chưa thấy quê lần nào. Chị Lan học cao lắm,
có bằng cử nhân văn chương Sài G̣n trước giải phóng. Gia đ́nh chị ngày
xưa giàu có, năm bảy chín bị cải tạo công thương nghiệp, chỉ c̣n quán cà
phê sống qua ngày. Quán gần một cơ quan cấp bộ, là nhà cũ của gia đ́nh
chị. Chị Lan nhận cháu làm em tinh thần.
Cán bộ cao cấp ông nào cũng trịnh trọng
bên ngoài, nhưng ông nào cũng mê gái. Mỗi lần uống cà phê cháu tính tiền
là họ “ bo ” nhiều lắm. Cháu sắm áo quần, son phấn rồi “ lên đời ”, chị
lan nói “phải biết đánh bóng ḿnh”. Quán nhờ cháu mà khách đông lên. Chị
Lan ngày càng tin tưởng, giao hẳn cho cháu quản lư.
Có ông thứ trưởng tên Lê chết vợ, tuổi cỡ
ông Thệ, mê cháu, rảnh là ra quán ngồi suốt ngày. Một hôm chị Lan nói có
thích làm vợ ông ấy không. Cháu suy nghĩ mấy bữa rồi đồng ư. Ḿnh nghĩ,
ở lại làng lấy ông Thệ c̣n được huống chi… Chị Lan bảo cháu ra điều kiện
phải có nhà mặt tiền để cháu mở quán cà phê. Ông ấy chịu. Nhà hồi đó c̣n
dễ, với chức vụ của ông Lê chỉ trong tháng là xin được ngay. Ngày cháu
và chị Lan đi coi, đứng trước căn nhà sang trọng cháu cứ run lên. Chị
Lan bảo “nhà của thiên hạ chớ nhà chi của tay Lê mà em sợ”. Rồi chị làm
cố vấn cho cháu ra điều kiện trước ngày cưới phải sang tên và có hộ khẩu
thường trú. Người lớn họ có kinh nghiệm. Rứa là cháu được làm chủ một
căn nhà mặt tiền ở quận ba. Đám cưới chỉ có chị Lan là người thân và một
số bạn bè chị ấy.
Ở với ông Lê được năm năm. Những năm đầu
c̣n hạnh phúc. (Cháu không có ư định lường đảo ai, kể cả ông Thệ). Cháu
cố gắng làm tṛn phận sự với chồng như những người phụ nữ quê ḿnh, dù
cháu chẳng yêu thương ǵ ông ấy. Càng về sau ông ấy càng tồi tệ. Đêm nào
về nhà cũng nồng nặc mùi rượu. Ông c̣n đem về những bộ phim con heo và
bắt cháu phải học làm như mấy diễn viên trong phim. Rồi ông h́ hục như
heo suốt đêm. Cháu tủi nhục, ê chề lắm, đem chuyện đó kể lại cho chị Lan.
Chị bảo yên tâm, thế nào chị cũng sập lăo Lê này mới được, “ Dĩ oán báo
oán, đời mà em ”. Đôi mắt chị rực lửa, chưa bao giờ thấy chị dữ dằn
như rứa.
Một sáng chị Lan điện thoại bảo chuẩn bị
đi đánh ghen, lăo Lê đang có vợ bé bên quận tám. Chị thuê một chiếc xe
mười hai chỗ ngồi, qua quận tư kêu thêm mấy bà đầu gấu nữa. Chị bảo em
cầm cái máy chụp h́nh, lên phim sẵn sàng để bấm, chị bố trí hết rồi.
Theo sắp xếp của chị Lan, cháu chụp được hầu hết những cảnh tượng gian
phụ dâm phụ đang thông dâm.. Rồi chị thuê luật sư, ra ṭa và cháu thắng
kiện. Sau đó ông Lê bị đi tù v́ một vụ án tham ô khác. Rứa là cháu có
căn nhà trị giá cả mấy trăm cây vàng, chị Lan bảo “ của thiên trả địa ”.
Nói rứa chớ tháng mô cháu cũng bới xách cho ông Lê trong tù, một ngày
cũng đạo ngăi vợ chồng.
Chị Lan lại bảo bán căn nhà đi để làm ăn.
Những năm mở cửa, chị em mua đất mô trúng nấy. Hiện giờ hai chị em có
công ty địa ốc, chị bảo “ chà đi xát lại chị vẫn là tư sản ”. Cháu không
nghĩ rứa, cháu là nông dân. Có nhiều tiền cũng vui, nhưng nghĩ đến những
ngày đói rét cơ cực cháu khóc hoài. Có điều kiện là cháu gửi tiền về
làng giúp đỡ bà con. Nghĩ đến ông Thệ cũng tội, những ngày ông đau ốm
cháu gửi tiền lo hết. Năm ngoái ông chết cháu có về lo đám đ́nh, xây
lăng cho ông. Giờ th́ cháu không thèm lấy chồng nữa, chỉ cần có một đứa
con. Cháu năm ni ba tám tuổi, c̣n sinh được.
Nhan nói giọng Sài G̣n, thỉnh thoảng cố
t́nh pha giọng quê.
Nổng cát bao quanh chỗ chúng tôi trồng
khoai ngày xưa lưa thưa vài cây dương liễu lên cao, vi vu nhè nhẹ. Trăng
lên cao càng sáng. Những ngày mưa vừa qua làm nước dâng lên cao. Mặt
nước khuất gió, không xao động, lăn tăn gợn, ánh trăng nhấp nháy trăm
ngh́n đom đóm nhập nḥe.
Chúng tôi ngồi xuống bên mé nước, ôn lại
chuyện xưa, khi cười khi khóc. Đến đoạn bị xỉu v́ đói, Nhan khóc hu hu
như con nít, rồi đột nhiên cười ha hả, nói như hét lên theo tiếng cười,
“ Chú B́nh ơi, tắm đi ” “ có đồ tắm mô ”, “ Có chi tắm nấy ”. Không chờ
tôi phản ứng, Nhan nắm tay tôi kéo ùm xuống nước. Nhan lặn một hơi sâu
rồi trồi lên cười khanh khách “ cứu với, đói quá sắp xỉu rồi ń ”. Lại
lặn nữa, áo dài và tóc của Nhan chập chờn trong nước. Lại trồi lên cầm
tay tôi nói như ra lệnh, “ Cởi áo cho cháu ”, tôi như cái máy, lại “ Cởi
quần cho cháu, nhanh lên ” tôi hụp xuống nước, tuột luôn quần Nhan. Áo
quần của Nhan cái sẩm cái sáng nỗi bập bềnh như hồi xưa người ta thả
vàng mă cho người chết trôi. Nhan cười ha hả, “ Coi cháu bơi ń ” Nhan
bơi ṿng quanh hồ nước, kêu lên “ Chú B́nh ơi, đói sắp xỉu rồi ń, cứu
cháu, cởi áo quần ra mới cứu được, nhanh lên không thôi cháu chết thiệt
đây ”. Nhan lặn một hơi dài. Tôi luống cuống cởi áo quần bơi đến gần.
Nhan ôm chặt lấy tôi thở hổn hển: “ Khi mô chú cũng ngơ ngơ như vịt
đực, c̣n thua cả lăo Thệ ”…
… Nước ngang bụng, xao động lúc nhanh lúc
chậm, rồi lao xao cuộn sóng, rồi lặp lại nhanh, chậm, rồi ầm ào…. Nhan
rên lên, tiếng thở ph́ phào ngắt quảng: “ Chú ơi... no... rồi, hết...
xỉu... rồi ”, cười măn nguyện. Nhan ôm riết cổ tôi thủ thỉ: “ Lạy trời
cho cháu có con với chú, sẽ đền cho chú một đứa con được ăn no
mặc ấm, học hành thành đạt. ”.
Hai đứa nằm lăn, cát dính đầy người. Hiu
hiu buồn ngủ. Nhan nằm nghiêng, tay chống cằm, mắt lim rim như chú Gàn
đang đọc thơ, làn môi hơi hé như hai búp bông khoai
(9)
ơ hờ sương gió, nói th́ thào “ Cứ nằm ri cho đến chết ”. Lại th́ thào
“ Mai mốt chết chú cháu ḿnh về làng chú hỷ, được chôn trong đất cát
trắng sẽ hóa kiếp thiên thần ”. Nhan nằm sấp lại nh́n xuống kỷ niệm,
chấp chới ánh nước loáng trăng lao xao dưới đó. Tấm lưng ong cong một
đường, lồ lộ dưới ánh trăng quê nhà vằng vặc. Đường ao hằn tṛn
h́nh rảnh khoai cát trắng mịn màng sau mùa lụt, tơi bời những gợn tóc
như dề cỏ chỉ
(10) vắt ngang.
Da cát trắng năo nùng. Cỏ chỉ xanh da diết.
Tóc đen thiệt t́nh. Hoa khoai tím hoang sơ. Tôi rùng ḿnh, nghe da thịt
nổi gai rờn rợn.
Sài G̣n Đêm 14.11.2007
Nguyễn Đặng Mừng.
(1) Ơn say: Đáng lẽ phải
nhớ mà không nhớ, một lối trách yêu. Ví dụ: Gặp một người thân nào đó mà
ḿnh không nhớ, người đó sẽ trách là “ ơn say chưa ”. Người Huế nói là
“ ơn thay chưa ”
(2) Ăn giỗ
(3) Cuốc răng: Một loại
cuốc có từ 4 đến 6 răng, răng dẹp khoảng 3 phân, chuyên dùng để cào
khoai đất cát.
(4) Cá lóc
(5) Găy chân
(6) Bao cát: một loại
bao bằng vải rất bền, của quân đội Mỹ. Đổ cát đầy bao, chất lên để làm
công sự.
(7) Ra ngoài đường đánh
nhau
(8) Mặc quần lót hằn rơ
đường lằn ở mông
(9) Bông khoai: Bông
khoai lang màu tím, một dạng loa kèn nhỏ bằng ngón tay cái.
(10) Cỏ chỉ: một loại cỏ
thân mảnh như cây th́ là, sống rất dai trên đất cát.
trang nguyễn đăng mừng
chân trần
art2all.net
|