BẮC NINH
Chùa
Bút Tháp
Chùa
Bút Tháp tên chữ là Ninh Phúc Tự, nằm ở phía nam sông Đuống, cạnh bờ
đê, thuộc làng Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành. Từ chùa nhìn
về hướng nam là cánh đồng lúa bên sông Thiên Đức (sông Dâu) chảy
quanh thành Luy Lâu. Bên kia sông Đuống có thể nhìn thấy núi Long
Chính, núi Long K hám, núi Phật Tích, v.v. tạo thành một con rồng
dài mà đâu đâu cũng mang dấu tích chùa xưa.
Theo Địa Chí Hà Bắc thì chùa được xây dựng dưới
thời vua Trần Thánh Tông(1258-1278). Ngài Huyền Quang (tên thế tục
là Lý Đạo Tái, đỗ Trạng Nguyên năm 1297),tổ thứ ba của dòng thiền
Trúc Lâm, đã từng trụ trì ở đây. Ngài đã xây một ngôi tháp 9 tầng,
nhưng nay không còn. Ngọn tháp làm cho chùa nổi danh là tháp Báo
Nghiêm do ngài Minh Hạnh xây để báo đáp ơn thầy là thiền sư Chiết
Tuyết (hay Chuyết Chuyết) (1540-1644) từ Phúc Kiến sang dạy đạo kể
từ năm 1633.
Vào thời gian này thái hậu triều Lê là Trịnh Thị
Ngọc Trúc rời bỏ cung đình,nơi đầy dẫy mưu mô hiểm ác, về đây tu học
(pháp danh Diệu Viên) đã cùng công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (Diệu Tuệ)
phát tâm cúng dường trùng tu và mở rộng qui mô chùa và hoàn thành
vào năm 1647.
Gác chuông
Gác chuông,nhìn từ bên phải
Tiền đường
Trong tiền đường có tượng Phật và Bồ Tát bằng gỗ rất độc đáo, mang
đậm sắc thái nghệ thuật tạo hình dân gian, không giống với tượng ở
các chùa miền trong (Trung và Nam).
Kiến trúc chùa theo mô hình nội công ngoại quốc.
Sau cửa tam quan là gác chuông và tiền đường là 7 tòa nhà song song
nhau, bao quanh bởi ba dãy hành lang, gồm có thượng điện, nhà thiêu
hương, am tích thiện, trung đường, phủ thờ, hậu đường. Chiều dài
tính từ tiền đường đến hậu đường hơn 100m.
Bên trái là hành lang, bên phải là 8 tòa nhà nằm song song.
Cầu đá cong nối thượng điện với am Tích Thiện.
Trên thành cầu có các phù điêu chạm khắc hình chim muông, hoa lá.
Am Tích Thiện. Am có 3 tầng mái. Bên trong có cây Cửu Phẩm Liên Hoa,
là một tháp bằng gỗ 9 tầng, 8 mặt, có thể quay tròn quanh trục ở
giữa.
Trên bề mặt tháp Liên Hoa này có nhiều tác phẩm chạm khắc hình tượng
Phật và Bồ Tát, cùng hoa lá.
Trong thượng điện có nhiều tượng, trong đó có tượng Văn Thù Bồ Tát,
sau lưng là tượng các vị La Hán (bố trí dọc theo hành lang)
Tượng Phật Tuyết Sơn, là hình ảnh Đức Phật Thích Ca khi đang tu khổ
hạnh trong núi tuyết cũng là một tuyệt tác nghệ thuật.
Tượng Quan Âm Chuẩn Đề, hay Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn là một tác
phẩm nổi tiếng do nhà điêu khắc họ Trương tạc vào năm 1656.
(Bên trong hơi tối, chụp hình không rõ lắm cho nên phải lấy hình từ
một tờ rơi. )
Tượng Bồ Tát ngồi thiền, cao 3,7m, rộng 2,1m, dày 1,15m. Tượng có 11
đầu, 42 tay lớn, và 952 cánh tay dài ngắn khác nhau. Tay dài nhất đo
được 2m.
Trong mỗi lòng bàn tay lại có một mắt, biểu thị lòng từ bi và năng
lực cứu độ của Bồ Tát Quan Âm . Ngài lắng nghe và nhìn thấy chúng
sinh đau khổ khắp mọi nơi và đưa tay cứu vớt.
Bệ thờ cao 54cm, có hình tượng rồng đội tòa sen.
Tháp Báo Nghiêm thờ Hòa Thượng Chiết Tuyết (Chuyết Chuyết) cao 13,
05m, có 5 tầng, mỗi tầng 5 mặt. Tầng dưới cùng có mái nhô ra, được
đỡ bằng các cột đá, tạo thành một hành lang bao quanh. Bên trong có
nhiều phù điêu bằng đá, khắc hoa lá, chim muông.
Tương truyền, hàng ngày vào buổi chiều một đàn
chim nhạn thường bay về đậu ở tháp đá này cho nên dân quanh vùng gọi
là chùa Nhạn Tháp. Nhưng vào năm 1876 khi vua Tự Đức thăm chùa gọi
tháp Báo Nghiêm là Bút Tháp thì chùa từ đó mang tên ấy.
Tháp Tôn Đức, nơi tôn trí xá lợi của Thiền sư Minh Hạnh. Tháp có 4
mặt, 5 tầng, cao khoảng 10m.
Điêu khắc gỗ trên tường nhà và cột kèo cũng có nét đặc sắc riêng.
Công Chúa Lê Thị Ngọc Duyên, pháp danh Diệu Tuệ, người đã cùng Thái
Hậu Ngọc Trúc từ bỏ nơi cung cấm về đây tu hành.
Trong phủ thờ còn có tượng Thái Hậu Trịnh Thị
Ngọc Trúc, nhưng rất tiếc hình không rõ cho nên không đưa vào đây
được.
Hoàng Tử Lê Đình Tứ
Trong hậu điện có tượng Hòa Thượng Chuyết Chuyết
và các thị giả
Bàn thờ Tam Tòa Thánh Mẫu.
Các chùa ở đây ngoài là nơi tu hành của các thiền sư, còn là nơi mà
các nghệ nhân, từ thợ nề, thợ mộc, cho đến thợ chạm gỗ, khắc đá,
thỏa sức thi thố tài năng, cho nên có những tác phẩm mang đậm nét
mộc mạc, chất phác, nông dân, có tác phẩm cực kỳ tinh tế, với trí
tưởng tượng phong phú, và tri thức Phật pháp cao sâu.
Trần Ngọc Bảo
Xem tiếp Du Khảo Phương Bắc (6)