CONFESSION

Lev Tolstoy

 

TỰ THÚ

Bản dịch: Đỗ Tư Nghĩa

 

1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16

 

~~ooOoo~~

 

CHƯƠNG XII 

     

Việc nhận thức những sai lầm của kiến thức thuần lư đă giúp tôi tự giải phóng ḿnh ra khỏi những cám dỗ của sự suy tưởng vô bổ, thiếu căn cứ.[1] Cái xác tín rằng, một kiến thức về chân lư chỉ có thể được t́m thấy trong cuộc sống đă dẫn tôi đến chỗ hoài nghi, rằng đời của riêng tôi chưa phải là cái mà nó nên là; và một điều độc nhất đă cứu tôi là, tôi đă có thể tách chính ḿnh ra khỏi sự cô lập của tôi, nh́n vào cuộc đời đích thực [2] của nhân dân lao động chất phác, và nhận thức rằng chỉ có cuộc sống như thế mới là cuộc sống đích thực. Tôi nhận thức rằng, nếu tôi muốn hiểu cuộc sống và ư nghĩa của nó, tôi sẽ phải sống không phải cuộc sống của một kư sinh trùng, mà (phải sống) cuộc sống chân thực [3]; và một khi tôi đă chấp nhận cái ư nghĩa được cung cấp cho tôi bởi nhân loại đích thực – vốn đă cấu thành cuộc sống – tôi sẽ phải trắc nghiệm nó.

Đây là cái  đă xảy đến với tôi vào thời đó: trong suốt một năm tṛn, khi hầu như mỗi phút tôi đều đang tự hỏi là tôi có nên chấm dứt mọi thứ đó bằng một sợi dây thừng hay một viên đạn, khi tôi bận tâm với những ư tưởng và những nhận xét mà tôi đă mô tả, trái tim tôi bị ṿ xé với một cảm nhận hết sức đau đớn. Cái cảm nhận này tôi chỉ có thể mô tả như là sự truy tầm Thượng đế.

Tôi nói rằng sự truy tầm Thượng đế này được sinh ra không phải từ lư tính, mà từ một cảm xúc,  bởi v́ nó là một truy tầm khởi lên không phải từ quá tŕnh tư tưởng của tôi, mà từ trái tim tôi – quả thật, nó đối nghịch trực tiếp với tư duy [4] của tôi. Nó là một cảm nhận về sự xao xuyến [5], về nỗi cô đơn, về t́nh trạngï bị bỏ rơi [6] giữa tất cả mọi thứ  xa lạ với tôi, và nó là một cảm nhận về một niềm hy vọng mong  có sự giúp đỡ của một ai đó.

Mặc dù sự kiện rằng, tôi xác tín về sự bất khả của việc chứng minh sự hiện hữu của Thượng đế –  ( Kant [7] đă cho tôi thấy, và tôi đă hiểu ông ta một cách đầy đủ, rằng không thể có một bằng chứng như thế) – mặc dù vậy, tôi vẫn truy tầm Thượng đế với hy vọng rằng tôi có thể t́m thấy Ngài, và theo một tập quán cũ là việc cầu kinh, tôi hướng tới cái người mà tôi truy tầm để cầu xin, nhưng không thể t́m thấy Ngài đâu cả. Trong trí óc tôi, tôi thường rà xét cẩn thận những kết luận của Kant và Schopenhauer liên quan đến cái bất khả của việc chứng minh sự hiện hữu của Thượng đế, và tôi thường cố bác bỏ chúng. Nhân quả, tôi thường nhủ thầm, th́ không phải là cùng một phạm trù với tư tưởng như không gian và thời gian. Nếu tôi hiện hữu, vậy th́ có một cái ǵ đó mà khiến cho tôi hiện hữu, nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Và cái nguyên nhân này của tất cả những ǵ hiện hữu được gọi là Thượng Đế; và tôi nghiền ngẫm cái tư tưởng này và với tất cả con người tôi, cố nhận thức sự có mặt của cái nguyên nhân này. Ngay khi tôi ư thức về sự hiện hữu của một quyền lực như thế ở trên tôi, tôi cảm thấy khả tính của cuộc sống. Nhưng tôi tự hỏi, “Cái nguyên nhân này là ǵ, cái quyền lực này là ǵ ? Tôi phải nghĩ về nó như thế nào? Mối quan hệ giữa tôi với cái gọi là Thượng đế là cái ǵ?” Và hiện ra trong đầu tôi, chỉ là câu trả lời quen thuộc với tôi: “ Ngài là kẻ sáng tạo, kẻ cung cấp mọi sự vật.” Tôi không thỏa măn với câu trả lời này, và tôi cảm thấy rằng, cái điều mà tôi cần có để sống vẫn c̣n thiếu. Tôi bị chế ngự bởi sự kinh hăi, và tôi bắt đầu cầu nguyện với kẻ mà tôi t́m kiếm,  để Ngài có thể giúp tôi. Và càng cầu nguyện, tôi càng thấy rơ rằng Ngài không nghe tôi (nói) và rằng, tuyệt đối không có ai mà tôi có thể quay hướng về. Trái tim tôi đầy tuyệt vọng trước cái sự kiện rằng không có Thượng đế, tôi kêu lên, “ Lạy Chúa, hăy xót thương con, hăy cứu vớt con ! Hỡi Chúa, Chúa của con, hăy đưa đường chỉ lối cho con!” [8] Nhưng không có ai thương xót tôi, và tôi cảm thấy đời tôi đă bế tắc.

Nhưng không biết bao nhiêu lần, và từ nhiều hướng khác nhau, tôi vẫn cứ trở lại cái xác tín rằng, có lẽ tôi đă không đi vào thế gian mà không có động cơ nào, nguyên nhân nào, hay ư nghĩa nào; rằng tôi không thể là con chim non rơi xuống từ một chiếc tổ – con chim mà tôi cảm thấy đó chính là tôi. Nếu tôi nằm ngửa trên cỏ cao và kêu to giống như một con chim non bị rơi, là bởi v́ mẹ tôi đă mang tôi vào trong thế gian, giữ cho tôi ấm, cho tôi ăn, và yêu thương tôi. Nhưng bây giờ mẹ tôi ở đâu ? Nếu tôi đă bị ném ra ngoài cái tổ, vậy th́ ai đă ném tôi ra ? Tôi không thể không nghĩ rằng một ai đó đă yêu thương tôi mà đă cho tôi chào đời. Cái người đó là ai? Một lần nữa, Thượng đế.

“ Ngài thấy và biết cuộc truy tầm của tôi, nỗi tuyệt vọng của tôi, sự vùng vẫy của tôi,” tôi thường nói với chính ḿnh. “Ngài hiện hữu.” Và ngay khi tôi công nhận điều này, trong một khoảnh khắc, sự  sống tức th́ nổi lên trong tôi, và tôi có thể cảm nhận khả tính và thậm chí niềm vui của hiện hữu. Nhưng một lần nữa, tôi thường di chuyển từ việc công nhận sự hiện hữu của Thượng đế tới việc xem xét mối quan hệ giữa tôi với Ngài, và một lần nữa, hiện lên trước mắt tôi vị Thượng đế là kẻ sáng tạo ra chúng ta, vị Thượng đế Ba ngôi, kẻ đă gửi đứa con trai của Người xuống thế gian, kẻ Cứu Chuộc của chúng ta.[9] Và một lần nữa, bị cô lập khỏi tôi và khỏi thế gian, Thượng đế thường chảy tan đi  trước mắt tôi giống như một miếng băng tuyết; một lần nữa, không có ǵ c̣n lại, một lần nữa, cái nguồn suối của sự sống tàn lụi đi. Tôi bị chế ngự bởi nỗi tuyệt vọng và cảm thấy rằng, không có ǵ để tôi làm ngoài việc tự kết liễu đời ḿnh. Và, tệ nhất, tôi cảm thấy rằng, tôi không thể có đủ can đảm để hoàn tất cái việc đó.

Tôi trượt té vào những t́nh huống này không phải 2, 3 lần, nhưng hằng 10 lần và hằng trăm lần – lúc th́ niềm vui và sức sống, lúc th́ tuyệt vọng, và một ư thức về sự bất khả của cuộc sống.

Tôi nhớ một ngày đầu xuân khi tôi ở một ḿnh trong rừng đang lắng nghe những âm thanh của khu rừng. Tôi lắng nghe và nghĩ về một điều độc nhất mà đă thường xuyên chiếm cứ tôi trong 3 năm vừa qua. Một lần nữa, tôi đang truy tầm Thượng đế.

“ Rất tốt,” tôi tự nhủ. “ Vậy là không có Thượng đế nào giống như vị Thượng đế mà tôi đă tưởng tượng ra; cái thực tại [10] duy nhất là đời tôi. Không có vị Thượng đế nào như thế cả. Và không có ǵ, không có phép mầu thuộc bất cứ loại nào, có thể chứng minh là có Ngài, bởi v́ những phép mầu chỉ hiện hữu trong trí tưởng tượng phi lư của tôi.”

“ Nhưng cái ư niệm về Thượng đế – kẻ mà tôi t́m kiếm – cái ư niệm ấy đến từ đâu ?” Tôi tự hỏi. Và một lần nữa, với cái ư tưởng này,  hiện lên trong tôi những làn sóng hân hoan của sự sống. Mọi sự xung quanh tôi sống dậy, đầy ư nghĩa. Nhưng niềm vui của tôi không kéo dài được lâu. Trí óc tôi tiếp tục công việc của nó. “Khái niệm về Thượng đế,” tôi tự nhủ, “không phải là Thượng đế. Một khái niệm là một cái ǵ đó mà xuất hiện bên trong tôi; khái niệm về Thượng đế là một cái ǵ đó mà tôi có thể khêu gợi lên bên trong tôi tùy ư. Đây không phải là cái mà tôi t́m kiếm. Tôi đang t́m kiếm cái mà thiếu nó sẽ không thể có sự sống.” Một lần nữa, mọi sự bên trong tôi và xung quanh tôi bắt đầu chết; một lần nữa, tôi cảm thấy niềm khao khát muốn tự kết liễu đời ḿnh.

Nhưng tại điểm đó, tôi nh́n kỹ hơn vào chính ḿnh và (nh́n) vào cái mà đă từng xảy ra bên trong tôi; và tôi nhớ hằng trăm lần tôi đă đi qua những cái chết và những hồi sinh như vậy. Tôi nhớ rằng, tôi đă sống chỉ khi nào tôi tin vào Thượng đế. Rồi, như bây giờ, tôi nói với chính ḿnh, “Chừng nào tôi biết Thượng đế, tôi sống; khi tôi quên, hay khi tôi không tin vào Ngài, tôi chết.” Những cái chết và những hồi sinh này là ǵ ? Thật rơ là, tôi không sống bất cứ khi nào tôi mất đức tin vào sự hiện hữu của Thượng đế, và có lẽ tôi đă tự vẫn từ lâu, nếu tôi đă không có một niềm hy vọng mơ hồ về việc sẽ t́m thấy Thượng đế. Tôi chỉ thực sự sống bất cứ khi nào tôi ư thức về Ngài và t́m kiếm Ngài. “Vậy th́, tôi t́m kiếm cái ǵ?” một giọng nói vang lên trong tôi. “Ngài th́ ở kia, và nếu không có Ngài, th́ không thể có sự sống.” Biết Thượng đế và sống dẫn tới một và cùng một điều. Thượng đế là sự sống.

“ Hăy sống, t́m kiếm Thượng đế, bởi v́ không thể có sự sống mà không có Thượng đế.” [11] Và một cách hùng mạnh hơn bao giờ, một làn ánh sáng ngời lên bên trong tôi và tất cả xung quanh tôi, và làn ánh sáng này đă không từ bỏ tôi từ đó.

Bằng cách đó, tôi đă được cứu thoát khỏi việc tự vẫn. Khi nào và như thế nào cuộc chuyển hóa này bên trong tôi được thành tựu tôi không thể nói. Hệt như trước đây – khi cái lực sống [12] trong tôi bị hủy diệt một cách từ từ và không thể nhận thấy, và tôi gặp phải sự bất khả của cuộc sống, cái sự đ́nh trệ bế tắc của cuộc sống, sự cần thiết phải tự vẫn –  th́ bây giờ, cái lực sống này cũng trở lại với tôi một cách từ từ và không thể nhận thấy. Và cái điều kỳ lạ là, cái lực sống mà bây giờ đang trở lại với tôi th́ không mới mà rất cũ; nó cũng chính là cái lực mà đă chỉ đạo tôi từ những giai đoạn ấu thơ của đời tôi. Trong bản chất, tôi trở lại với những điều đầu tiên, với những điều của tuổi thơ và tuổi trẻ. Tôi trở lại với đứo tin vào cái ư chí đó –  cái ư chí đă  cho tôi chào đời và yêu cầu một cái ǵ đó ở tôi; tôi trở lại với cái xác tín rằng, mục đích duy nhất và quan trọng nhất trong đời tôi là trở nên tốt hơn,  (là) sống theo cái ư chí này. Tôi trở lại với cái xác tín rằng, tôi có thể t́m thấy sự biểu hiện của cái ư chí này trong một cái ǵ đó mà đă từ lâu che khuất khỏi tôi, một cái ǵ đó mà tất cả nhân loại đă sáng chế ra để chỉ đạo chính nó; tóm lại, tôi trở lại với một niềm tin vào Thượng đế, vào sự toàn thiện về đạo đức [13], và tin vào một truyền thống mà đă truyền dần ư nghĩa vào cho cuộc sống. Cái khác biệt duy nhất là, trước đây tôi đă một lần chấp nhận tất cả những cái này trên b́nh diện vô thức, trong khi bây giờ tôi biết, một cách hữu thức,  rằng tôi không thể sống thiếu nó.

Cái đă xảy ra với tôi là một cái ǵ đó giống như cái sau đây. Không thể nhớ lại là tôi đă đến đó như thế nào, tôi thấy ḿnh trong một con thuyền mà đă được hạ thủy từ một bờ bến nào không biết được; lối đi tới bờ bên kia được chỉ cho tôi, những mái chèo được đặt vào hai bàn tay thiếu kinh nghiệm của tôi, và tôi được bỏ lại một ḿnh. Tôi điều khiển những mái chèo một cách tốt nhất có thể được và chèo đi. Nhưng tôi càng chèo về phía trung tâm, th́ ḍng nước càng chảy xiết,  đưa tôi trệch xa khỏi hướng đang đi, và mỗi lúc tôi càng gặp nhiều người, giống như tôi, cũng đang bị ḍng nước cuốn trôi đi. Có một ít người tiếp tục chèo, một vài người đă ném mái chèo. Có những chiếc xuồng lớn, những con tàu khổng lồ, đầy người; một số người vùng vẫy chống lại ḍng nước, những người khác hoàn toàn buông ḿnh trôi theo nó. Và, nh́n theo hướng ḍng nước chảy xuôi, nh́n mọi người đang bị trôi đi theo ḍng nước, tôi càng chèo xa hơn, tôi càng quên lối đi mà người ta đă chỉ ra cho tôi. Ở tại trung tâm của ḍng nước, giữa đám xuồng và tàu đang bị trôi đi xuôi ḍng, tôi lạc đường hoàn toàn và ném mái chèo của tôi. Tất cả xung quanh tôi, trong niềm vui và sự đắc thắng, những con người lao đi xuôi ḍng dưới cánh buồm và mái chèo, trấn an tôi và trấn an nhau rằng, không thể có chiều hướng nào khác. Và tôi tin họ và di chuyển theo cùng với họ. Và tôi bị trôi đi một đoạn đường xa, quá xa đến nỗi tôi nghe tiếng gầm rú của những ḍng thác mà trong đó chắc chắn tôi sẽ bị  tiêu vong và tôi thấy những chiếc xuồng đang bị hủy diệt trong những ḍng thác đó. Rồi tôi hoàn hồn trở lại. Trong một thời gian dài, tôi không thể hiểu cái ǵ đă xảy ra với tôi. Tôi thấy trước mặt tôi cái sự đổ nát kỳ đặc chưa từng thấy, sự đổ nát mà tôi sợ hăi, và về phía nó tôi đang lao thẳng vào; tôi không thể thấy sự cứu rỗi ở đâu cả, và tôi không biết phải làm cái ǵ. Nhưng, nh́n phía sau, tôi thấy vô số những chiếc xuồng đang vùng vẫy một cách không nao núng chống lại ḍng nước, và tôi nhớ lại những mái chèo và con đường tới bờ, và bắt đầu chèo ngược ḍng nước và trực chỉ tiến về  phía nó.

Cái bờ là Thượng đế, ḍng nước là truyền thống, và những mái chèo là cái ư chí tự do đă được ban cho tôi để chèo được tới bờ,  nơi mà tôi sẽ được kết hợp với Thượng đế. Cái lực của sự sống được hồi sinh bên trong tôi như thế, và tôi bắt đầu sống lại một lần nữa.


 

[1] Idle reflection.

[2] The true life.

[3] Genuine.

[4] My thinking.

[5] Dread. Xao xuyến, cô đơn và bị t́nh trạng bỏ rơi, là những phạm trù mà phái Hiện sinh khai thác – tiêu biểu, là Kierkegaard và Heidegger. ( ĐTN).

[6] Forlornness.

[7] Immanuel Kant ( 1724 – 1804): triết gia Đức. Sự phê b́nh lư trí của ông đặt ra câu hỏi về khả tính của nhận thức và cái nền tảng của những phán đoán của chúng ta về thế giới.

[8] Đối với một đầu óc tôn súng lư tính như Tolstoy, mà có lúc phải thốt lên những lời này, th́ thật là thống thiết ! ( ĐTN).

[9] Đây chỉ là quan niệm về Thượng đế của Kytô giáo, đặt nền tảng trên Cựu ước và Tân Ước; vị này có “ ngôi vị”, có “ nhân trạng” [ personal], toàn năng, toàn trí…  sáng tạo ra vũ trụ và con người , và can thiệp vào mọi diễn biến của mọi vật thụ tạo của Ngài… C̣n có một loại “ Thượng đế” khác, vô ngôi vị, phi nhân trạng, [ impersonal]  - là nguyên lư của vũ trụ và con người, thường được gọi là “ nền tảng tối hậu của sự hiện hữu” [ the Ultimate Ground of Existence] – chẳng hạn như Đạo theo Lăo Tử, Brahman, theo Hindu giáo…  ( ĐTN).

[10] Reality.

[11] Câu này đúng, nhưng Thượng đế không nhất thiết phải là có “ nhân trạng” [ personal], mà có thể là “ phi nhân trạng” [ impersonal].  (ĐTN).

[12] The life force.

[13] Moral perfection.

 

 

 

trang đỗ tư nghĩa

chân trần

art2all.net