ĐỖ TƯ NGHĨA

 

Epictetus

NGHỆ THUẬT SỐNG

Bản dịch Đỗ Tư Nghĩa

 

ĐÔI D̉NG VỀ EPICTETUS & TÁC PHẨM CỦA ÔNG. (3)

Sharon Lebell

I

Sự hấp dẫn lâu bền và ảnh hưởng rộng khắp của Epictetus, một phần là do ông không mơ hồ trong việc phân biệt những triết gia chuyên nghiệp và những người b́nh thường. Ông diễn đạt thông điệp của ḿnh một cách rơ ràng và nồng nhiệt, gửi đến tất cả những ai quan tâm đến việc sống một cuộc đời tỉnh thức về đạo đức.


Tuy nhiên, Epictetus vững tin vào sự tất yếu của việc rèn luyện, để dần dần tinh lọc tính cách và hạnh kiểm (4) cá nhân. Sự tiến bộ đạo đức không phải là lănh địa độc quyền của giới quư tộc, cũng không thể đạt tới do t́nh cờ hay may mắn, mà bằng cách tự rèn luyện bản thân – hằng ngày.


Có lẽ, Epictetus đă không chịu được những tṛ pirouette (5) bằng lời nói, có tính gây hấn, để chiếm giữ và bảo vệ địa vị, mà, rủi thay, đôi khi được xem là “làm” triết học, tại những trường đại học hiện nay. Là một bậc thầy có năng lực diễn đạt súc tích, có lẽ ông cũng ngờ vực cái cách diễn đạt rườm rà, tối ṃ được t́m thấy trong những văn bản hàn lâm, triết học, và những văn bản khô khan khác. Không chỉ kịch liệt tố giác việc phô trương kiến thức, chỉ để được tiếng là người “uyên bác,” (6) ông c̣n tận tụy với những lời giải thích của ḿnh, không cần ai bảo lănh, về những ư tưởng hữu ích cho việc sống tốt. Ông tự xem là thành công, khi những ư kiến của ông được dễ dàng nắm bắt và đưa vào thực hành trong đời thực, nơi mà chúng có thể thực sự nâng cao tính cách của con người.


Để ăn nhịp với tinh thần dân chủ và phóng khoáng của học thuyết của Epictetus, tập sách này đúc kết những ư tưởng then chốt của ông và dùng thứ ngôn ngữ và h́nh ảnh thực tế, phù hợp với đôi tai của con người hiện đại. Để tŕnh bày những lời dạy của Epictetus trong một thể cách càng giản dị, dễ hiểu, và hữu ích càng tốt, tôi đă góp phần của riêng ḿnh trong việc tuyển chọn, giải thích, và ứng tác (7) dựa trên những ư tưởng chứa đựng trong The EnchiridionThe Discourses, là những tài liệu duy nhất c̣n sót lại, vốn tóm tắt triết lư của Epictetus. Mục đích của tôi, là truyền đạt cái tinh thần đích thực, nhưng không nhất thiết là theo đúng từng câu chữ, của Epictetus. Do vậy, tôi đă tham khảo những bản dịch khác nhau, và rồi, đưa ra sự diễn đạt mới mẻ cho những điều mà tôi nghĩ, nếu ông sống lại trong thời đại hiện nay, có lẽ ông đă nói.


Epictetus hiểu rơ sự hùng biện của hành động. Ông mạnh mẽ cảnh báo những môn đệ của ḿnh hăy tránh việc chỉ giỏi lư thuyết suông, mà hăy chủ động áp dụng (8) những lời dạy của ông vào những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống hằng ngày. Do vậy, tôi đă cố diễn đạt những hạt nhân của tư tưởng Epictetus trong một phương cách hiện đại, khêu gợi tư duy, gợi hứng cho bạn đọc, không chỉ để suy niệm, mà c̣n để tạo ra những thay đổi nhỏ, nối tiếp nhau, mà sau cùng, ở cực điểm, sẽ đạt tới phẩm cách cá nhân và một cuộc sống có ư nghĩa và cao thượng.
 


II

Làm thế nào để sống một cuộc sống hạnh phúc, hoàn măn (9) ? Làm thế nào để trở thành một người tốt?


Việc trả lời những câu hỏi này, là niềm đam mê, là mục đích duy nhất của Epictetus, đại triết gia Khắc kỷ chủ nghĩa. Mặc dù – do việc giáo dục về văn học cổ đại bị giảm sút – những tác phẩm của ông ít được biết đến hôm nay, nhưng chúng đă có ảnh hưởng to lớn trên những triết gia hàng đầu về nghệ thuật sống, qua suốt gần 2 thiên niên kỷ.


Epictetus ra đời như là một nô lệ, vào khoảng năm 55 sau công nguyên, tại Hierapolis, Phrygia, phía Đông của Đế quốc La Mă. Chủ của ông là Epaphroditus, bí thư hành chánh của Nero. Từ khi c̣n rất nhỏ, Epictetus đă biểu lộ một tài năng xuất chúng về tri thức; và Epaphroditus, quá bị ấn tượng, đến nỗi ông gửi chàng trai trẻ đến La Mă để học với vị thầy Khắc kỷ chủ nghĩa nổi tiếng, Gaius Musonius Rufus. Những tác phẩm của Rufus, c̣n sót lại bằng tiếng Hy Lạp, bao gồm những luận cứ bênh vực cho quyền b́nh đẳng về giáo dục đối với phụ nữ, và chống lại đặc quyền của nam giới về t́nh dục trong hôn nhân; và tinh thần b́nh đẳng nổi tiếng của Epictetus, chắc hẳn đă được nuôi dưỡng dưới sự giáo huấn của vị này. Epictetus trở thành môn đệ nổi tiếng nhất của Rufus, và sau cùng, được giải phóng khỏi t́nh trạng nô lệ.


Epictetus giảng dạy tại La Mă cho đến năm 94 sau công nguyên, khi hoàng đế Domitian, bị đe dọa bởi ảnh hưởng ngày càng lớn của những triết gia, trục xuất ông khỏi La Mă. Ông trải qua phần c̣n lại của đời ḿnh trong chốn lưu đày, tại Nicopolis, trên vùng duyên hải phía Tây Bắc của Hy Lạp. Tại đó, ông thiết lập một ngôi trường triết học, và trải qua những ngày tháng của ḿnh, thuyết giảng về cách sống với phẩm cách và sự thanh thản. Trong số những môn đệ lỗi lạc nhất của ông, là chàng trai trẻ Marcus Aurelius Antoninus, về sau, trở thành hoàng đế của Đế quốc La Mă. Ông này là tác giả của Meditations, mà những gốc rễ Khắc kỷ chủ nghĩa của nó, nằm trong những học thuyết đạo đức của Epictetus.


Mặc dù Epictetus là một bậc thầy kiệt xuất về logic và tranh luận, ông không phô trương kỹ năng phi thường của ḿnh về tu từ học. Ông là một vị thầy khiêm cung, thanh thản (10) , luôn động viên những môn đệ của ḿnh hăy xem trọng việc sống đời minh triết. Epicetus sống đúng như lời giáo huấn của ḿnh: Ông sống một cách giản dị trong một túp lều nhỏ, và không màng đến danh, lợi và quyền lực. Ông qua đời vào khoảng năm 135, tại Nicopolis.

Epictetus tin rằng, công việc cơ bản của triết học, là giúp những con người b́nh thường đối mặt một cách hữu hiệu với những thách thức hằng ngày (11) của cuộc sống thường nhật, và xử lư những mất mát chủ yếu và không thể tránh, những nỗi thất vọng và những sầu muộn. Những giáo huấn của ông về đạo đức được tước bỏ tính đa cảm bi luỵ, sự giáo điều của tôn giáo, và cái “vớ vẩn vô bổ” của siêu h́nh học. Nó là cuốn sách vỡ ḷng đầu tiên và tốt nhất của phương Tây, cho việc sống cuộc sống tốt nhất có thể được.


Trong khi nhiều bạn đọc quay sang những nguồn của phương Đông để t́m kiếm sự hướng dẫn phi tông phái (12) về tâm linh, th́ phương Tây đă có, [mặc dù bị bỏ quên], một kho tàng quan trọng và hữu ích của minh triết-hành động (13) như thế. Là một trong những vị thầy khôn ngoan, mẫn tiệp nhất đă từng hiện hữu, những lời dạy của Epictetus sánh ngang với những lời dạy được chứa đựng trong nền minh triết vĩ đại nhất của văn minh nhân loại. Tác phẩm The Discourses, có thể sánh với Kinh Pháp cú của Phật giáo, hay Đạo đức kinh của Lăo Tử. Những ai chê trách triết học phương Tây, cho rằng nó quá nặng về lư trí và chưa xem trọng cái chiều kích phi lư tính (14) của cuộc sống, sẽ ngạc nhiên khi biết rằng, Nghệ thuật sống thực sự là một triết học về sự tự do và b́nh an nội tại, một lối sống, mà mục đích của nó, là mang đến sự thanh thản cho tâm hồn ta.


Một phong vị bất ngờ, kết hợp giữa Đông và Tây, mang lại cho Nghệ thuật sống một sức sống đặc biệt. Một mặt, cái phong cách của nó, không phản bác được, là của phương Tây: Nó ca tụng lư tính và đầy những huấn thị về đạo đức, nghiêm khắc và nghiêm túc. Mặt khác, dường như có một làn gió nhẹ của phương Đông, khi Epictetus thảo luận về bản chất của vũ trụ. Sự mô tả của ông về Thực tại Tối hậu, chẳng hạn, mà ông đánh đồng với chính Thiên nhiên, th́ vô cùng uyển chuyển và ảo diệu, khiến ta giật ḿnh nhớ đến Đạo (15) . [của Lăo Tử. ĐTN].


Đối với Epictetus, một cuộc sống hạnh phúc và một cuộc sống đức hạnh, là đồng nghĩa với nhau (16). Hạnh phúc và sự hoàn măn cá nhân (17), là những hậu quả tự nhiên của việc làm điều đúng. Không giống như nhiều triết gia của thời ḿnh, Epictetus ít quan tâm đến việc t́m hiểu thế giới cho bằng việc xác định những bước đi cụ thể phải làm, trong việc theo đuổi sự hoàn hảo (18) về đạo đức. Một phần của thiên tài của ông, là việc nhấn mạnh trên sự tiến bộ đạo đức, hơn là việc t́m kiếm sự hoàn hảo về đạo đức. Ông hiểu sâu sắc rằng, chúng ta dễ bị chệch khỏi việc sống theo những nguyên tắc cao nhất của ḿnh. Do vậy, ông động viên chúng ta hăy xem cuộc sống triết lư như là một chuỗi tiệm tiến của những bước đi, mà dần dần đưa ta xích lại gần hơn với những lư tưởng cá nhân mà ta hằng ấp ủ.


Khái niệm của Epictetus về cuộc sống tốt, không phải là vấn đề có một danh sách những lời khuyên răn, mà là việc làm cho những hành động và những ước vọng của ta ḥa điệu với tự nhiên (19). Điều quan trọng, không phải là thực hiện những hành vi tốt để giành được ân huệ của thần linh, hay sự thán phục của những người khác, mà là để đạt tới sự thanh thản nội tại, và như thế, [đạt tới] sự tự do cá nhân. Việc đạt tới sự thiện là một cơ hội đồng đều, ở trong tầm tay của bất cứ ai, trong bất cứ thời điểm nào: giàu hay nghèo, được giáo dục, hay không. Nó không phải là lănh địa độc quyền của “những nhà chuyên nghiệp về tâm linh” (20), như những nhà tu, những vị thánh, hay những nhà khổ hạnh.


Epictetus đưa ra một quan niệm về đức hạnh rất giản dị, b́nh thường, và có thể áp dụng vào cuộc sống hằng ngày. Ông ưa thích một cuộc đời được sống một cách kiên tŕ, tuân phục thiên ư, hơn là sự khoa trương cái tốt đẹp bằng những hành vi phi thường, anh hùng, lộ liễu. Đơn thuốc của ông cho cuộc sống tốt được tập trung vào 3 chủ đề chính: làm chủ những dục vọng của bạn, thực hiện những bổn phận của bạn, và học cách suy tư một cách rơ ràng về chính bạn và những mối quan hệ của bạn bên trong cộng đồng lớn hơn của nhân loại.


Epictetus nhận ra rằng, cuộc sống hằng ngày th́ đầy rẫy những khó khăn ở những mức độ khác nhau. Ông trải qua đời ḿnh trong việc phác họa con đường đi tới hạnh phúc, sự hoàn măn, và sự thanh thản (21) , bất luận hoàn cảnh của ta có thế nào đi nữa. Những lời dạy của ông, khi chúng được giải phóng khỏi những “cái hào nhoáng” của văn hóa cổ đại, th́ thích hợp một cách kỳ lạ với cuộc sống hiện đại. Nhiều khi, triết lư của ông nghe ra giống như “phần tinh hoa nhất” của tâm lư học hiện đại. Lời cầu nguyện, – “Xin hăy ban cho tôi sự b́nh tâm để chấp nhận những điều mà tôi không thể thay đổi, ḷng dũng cảm để thay đổi những điều mà tôi có thể, và sự minh triết để nhận biết sự khác biệt [giữa cái thay đổi được và cái không thay đổi được]” – có thể là một câu nói được gợi hứng từ cuốn sách này. Quả thực, những tư tưởng của Epictetus là một trong những gốc rễ của tâm lư học hiện đại về sự tự quản. (22)


Tuy nhiên, trên những phương diện quan trọng, th́ Epictetus rất truyền thống và phi hiện đại (23) . Trong khi xă hội của chúng ta [về mặt thực tế, nếu không luôn luôn tường minh] xem sự thành công trong nghề nghiệp, sự giàu sang, quyền lực, và danh vọng như là những thứ đáng ao ước và đáng ngưỡng mộ, th́ Epictetus lại xem chúng như là cái thứ yếu (24) và không ăn nhập ǵ đến hạnh phúc chân thực. Cái quan trọng nhất, là loại người mà bạn đang trở thành; là loại cuộc sống mà bạn đang sống.

S. L.
______

 

(3) Nhan đề này là của ĐTN, người dịch của bản Việt ngữ.

(4) Behavior. Có thể dịch là “cách ứng xử.”
(5) Pirouette: Động tác xoay tṛn một chân trên ngón chân, hay xoay tṛn hai chân của vũ công. Ư nói, đó chỉ là “sự uốn éo của ngôn ngữ”, chứ không hữu ích ǵ cho cuộc sống.
(6) Ư nói, chỉ phô trương “kiến thức”, chứ không áp dụng kiến thức đó vào cuộc sống.
(7) Improvisation.
(8) Cần chú ư điều này. Epictetus xem trọng thực hành hơn lư thuyết.
(9) Fulfilling.
(10) Light-hearted: vui vẻ, sung sướng, thanh thản.
(11) Thông thường, triết học bị xem là một môn học trừu tượng, viển vông, xa rời cuộc sống. Nhưng, với Epictetus, nó rất gần gũi và thiết thân với đời thực.
(12) Nonsectarian.
(13) Wisdom-action.
(14) Nonrational.
(15) Chú ư: Về mặt tư tưởng, Lăo Tử và những triết gia Khắc kỷ chủ nghĩa, đều đậm chất phiếm thần luận [pantheism]. Đạo và vị Thượng đế của PTL chỉ là một “nguyên lư tối hậu”, điều hành vũ trụ, chứ không phải là vị Thượng đế có ngôi vị, có quyền thưởng phạt như vị Thượng đế của Ki tô giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo
(16) Có nghĩa là, nếu thiếu “đức hạnh”, th́ không thể có hạnh phúc. Và có hạnh phúc, nghĩa là đă có đức hạnh. Nhưng thế nào là “ đức hạnh” ? Nó gổm 3 điểm: 1. Làm chủ những dục vọng của ḿnh. 2. Thực hiện những bổn phận của ḿnh. 3. Học cách suy tư một cách rơ ràng về chính ḿnh và những mối quan hệ của bản thân bên trong cộng đồng lớn hơn của nhân loại.
(17) Personal fulfillment.
(18) Excellence.
(19) Đây là một câu rất quan trọng. Nhưng thế nào là “tự nhiên” theo chủ nghĩa Khắc kỷ? Trong dụng ngữ của chủ nghĩa này, th́ Tự Nhiên, Thiên Ư, Đấng quan pḥng, Bản tính đại đồng, Thượng đế, và Lư Tính hầu như đồng nghĩa với nhau. Tự nhiên có những quy luật bất biến, và khi con người hiểu biết và sống theo những quy luật ấy, th́ sẽ có sự thanh thản của tâm hồn. Trái lại, nếu đi ngược lại Tự Nhiên, th́ sẽ tự chuốc khổ cho ḿnh. Lư Tính trong mỗi người, là quan năng có khả năng giúp đương sự hiểu biết những quy luật; do vậy, sống theo tự nhiên, cũng có nghĩa là sống theo lư tính đă được phú bẩm cho mỗi người. Như vậy, trước mắt, ta cần nhớ, “sống theo tự nhiên” không có nghĩa là “sống theo bản năng”, muốn làm ǵ th́ làm. Cũng cần nhớ, là chữ “Lư tính” ở đây là một nguyên lư rất sâu xa, thiêng liêng, chứ không phải chỉ là “lư trí’ manh mún, vụn vặt như cách hiểu thông thường.
(20) Spiritual professionals.
(21) Tranquility. Sự yên tĩnh. Sự thanh thản. Chú ư: sự “thanh thản” ở đây không phải là sự thanh thản thông thường, mà là sự thanh thản của một kẻ đă được rèn luyện, sống ḥa điệu với lư tính. Đây là lư tưởng cao nhất của chủ nghĩa Khắc kỷ.
(22) Self-management.
(23) Uncontemporary.
(24) Incidental. Có thể nói khái quát, Epictetus luôn chú trọng việc “thành nhân” hơn là “thành công.” Và, nếu xă hội hiện đại chú trọng “thành công” hơn “thành nhân”, th́ phải công bằng mà nói, đó là sự suy thoái của xă hội hiện đại trên phương diện đạo đức. Nhưng phải chăng Epictetus quá “xem nhẹ” sự “thành công”? Theo thiển ư, không phải vậy. Có lẽ, ông muốn sự thành công phải được đặt nền tảng trên sự “thành nhân”.


 

 

art2all.net